Tin trong nước

Quy hoạch thủy lợi cho 4 triệu ha lưu vực sông Cửu Long

  

Chọn cỡ chữ   

Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà vừa ký Quyết định số 2307/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch thủy lợi lưu vực sông Cửu Long thời kỳ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Theo Quy hoạch, phạm vi điều chỉnh bao trùm toàn bộ địa giới hành chính vùngĐồng bằng sông Cửu Long, bao gồm thành phố Cần Thơ, các tỉnh Vĩnh Long, Cà Mau, An Giang, Đồng Tháp và một phần tỉnh Tây Ninh, với tổng diện tích khoảng 4 triệu ha (không bao gồm các đảo). Đây là khu vực có vai trò chiến lược đối với an ninh lương thực quốc gia, phát triển kinh tế nông nghiệp và xuất khẩu thủy sản.

Quy hoạch thủy lợi lưu vực sông Cửu Long hướng đến năm 2030, bảo đảm cấp và tạo nguồn cấp nước sinh hoạt cho khoảng 17 - 18 triệu người dân. Ảnh: Minh Anh.Quy hoạch thủy lợi lưu vực sông Cửu Long hướng đến năm 2030, bảo đảm cấp và tạo nguồn cấp nước sinh hoạt cho khoảng 17 - 18 triệu người dân. Ảnh: Minh Anh.

Chủ động điều tiết nguồn nước, thích ứng với phát triển thượng nguồn và biến đổi khí hậu

Mục tiêu tổng quát của Quy hoạch nhằm chủ động điều tiết nguồn nước, thích ứng với phát triển thượng nguồn và biến đổi khí hậu để cấp nước, tiêu, thoát nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, tạo nguồn cấp nước bền vững cho dân sinh và các ngành kinh tế; đáp ứng yêu cầu chuyển đổi mô hình sản xuất một cách linh hoạt; nâng cao năng lực chủ động phòng, chống thiên tai, sẵn sàng ứng phó với trường hợp bất lợi nhất; đáp ứng yêu cầu phục vụ phát triển kinh tế - xã hội bền vững, bảo vệ môi trường; góp phần bảo đảm an ninh nguồn nước, giữ vững quốc phòng, an ninh. 

Quy hoạch đặt mục tiêu đến năm 2050 bảo đảm nguồn nước bền vững phục vụ sản xuất và đời sống trong mọi điều kiện bất lợi; giảm thiểu thấp nhất thiệt hại do hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn. Ảnh: Minh Anh.Quy hoạch đặt mục tiêu đến năm 2050 bảo đảm nguồn nước bền vững phục vụ sản xuất và đời sống trong mọi điều kiện bất lợi; giảm thiểu thấp nhất thiệt hại do hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn. Ảnh: Minh Anh.

Trên cơ sở đó, Quy hoạch đề ra các mục tiêu cụ thể cần đạt được đến năm 2030, tập trung vào bốn nhóm nhiệm vụ trọng tâm:

Thứ nhất, về cấp nước và tưới tiêu, Quy hoạch phấn đấu bảo đảm cấp nước sinh hoạt cho khoảng 17 - 18 triệu người và đáp ứng nhu cầu nước cho các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao thông qua hệ thống công trình thủy lợi. Đặc biệt, mục tiêu ưu tiên là bảo đảm cấp nước chủ động cho khu vực nông thôn và sản xuất nông nghiệp, kể cả trong điều kiện hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn tương tự giai đoạn 2015 - 2016; đến năm 2030 phải giải quyết dứt điểm tình trạng thiếu nước sinh hoạt tại các vùng chịu ảnh hưởng nặng nề.

Thứ hai, về hạ tầng thủy lợi phục vụ sản xuất, Quy hoạch đặt mục tiêu nâng cấp, sửa chữa và xây dựng mới các công trình thủy lợi, hoàn thiện hệ thống kênh rạch kết hợp với giao thông nội đồng. Qua đó, chủ động tưới, tiêu và điều tiết nước mặn - ngọt cho khoảng một triệu héc-ta lúa chất lượng cao, phát thải thấp, hướng tới tăng trưởng xanh và phát triển nông nghiệp bền vững.

Thứ ba, về tiêu thoát nước và chống ngập úng, Quy hoạch yêu cầu chủ động tiêu thoát nước ra các sông trục chính, mở rộng diện tích tiêu bằng động lực để bảo vệ vùng trũng thấp phục vụ dân sinh và sản xuất với tần suất từ 5% đến 10%. Đồng thời, bảo đảm tiêu thoát nước cho 1,6 triệu ha lúa 2 - 3 vụ, 0,4 - 0,45 triệu ha cây ăn trái, 0,21 triệu ha cây hàng năm và 0,8 triệu ha nuôi trồng thủy sản; đáp ứng yêu cầu tiêu thoát cho các khu đô thị và khu công nghiệp.

Thứ tư, về phòng chống thiên tai và kiểm soát mặn, Quy hoạch hướng đến phòng chống ngập úng với tần suất 1% cho các đô thị trọng điểm như Cần Thơ, Cà Mau, Vĩnh Long, An Giang, Đồng Tháp. Cùng với đó, dành từ 7% đến 10% diện tích đất đô thị để làm không gian trữ nước kết hợp cảnh quan sinh thái; chủ động kiểm soát mặn trên khoảng 1,35 triệu ha đất nông nghiệp thông qua các điểm khống chế mặn với ngưỡng từ 1g/l đến 4g/l, nhằm bảo đảm an toàn sản xuất và ổn định sinh kế của người dân.

Để đạt được các mục tiêu trên, Quy hoạch đưa ra các nhóm giải pháp đồng bộ, bao gồm phân vùng sinh thái, xác định các điểm kiểm soát mặn, xây dựng hệ thống công trình thủy lợi và triển khai các giải pháp phi công trình nhằm nâng cao tính chủ động của toàn vùng.

Quy hoạch đưa ra giải pháp thực hiện các mục tiêu trong đó có việc phân vùng quy hoạch, điểm khống chế mặn; giải pháp công trình; giải pháp phi công trình.

 Tầm nhìn đến năm 2050, Quy hoạch thủy lợi lưu vực sông Cửu Long hướng tới bảo đảm chủ động nguồn nước phục vụ sản xuất và dân sinh trong mọi tình huống bất lợi, giảm thiểu thiệt hại cho đời sống và sản xuất của người dân do tình trạng hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn gây ra ở mức thấp nhất. Bảo đảm đầu tư đồng bộ, khép kín các hệ thống công trình thủy lợi từ đầu mối đến nội đồng, giải quyết cơ bản hiện tượng ngập úng do lũ, mưa và triều cường cho các khu vực đô thị bằng các giải pháp thủy lợi... 

Ba vùng sinh thái

Về phân vùng quy hoạch sẽ bao gồm: vùng sinh thái ngọt; vùng sinh thái ngọt - lợ và vùng sinh thái mặn với các giải pháp công trình tương ứng. 

Trong đó, vùng sinh thái ngọt với diện tích 1,9 triệu ha bao gồm một phần của hệ thống thủy lợi Đồng Tháp Mười, Tứ Giác Long Xuyên, Bắc Vàm Nao, Nam Vàm Nao, vùng Tây sông Hậu, Bắc Vĩnh An, U Minh Hạ, thuộc một phần các tỉnh, thành phố: Đồng Tháp, An Giang, Vĩnh Long, Tây Ninh, Cần Thơ, Cà Mau. Định hướng phát triển thủy lợi cho vùng này phục vụ cho các mô hình sản xuất: cây ăn trái, lúa, rau màu và thủy sản nước ngọt.

Giải pháp công trình là tập trung giải pháp kiểm soát lũ tràn biên giới từ Campuchia vào Việt Nam tại vùng Tứ Giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười; lũ trên dòng chính sông Tiền, sông Hậu; tăng khả năng tiêu, thoát lũ nội đồng. Đồng thời tăng cường cấp nước từ sông chính vào các khu vực xa sông gần biển, các khu vực thiếu nước ngọt; xây dựng hệ thống cống lớn đầu kênh, cống cửa sông, cống dưới đê thành các ô bao lớn để chủ động chống ngập úng, tiêu, thoát nước; nạo vét kênh, rạch tăng khả năng cấp, tiêu, thoát nước.

Công trình thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé. Ảnh: Nguyễn Thủy.Công trình thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé. Ảnh: Nguyễn Thủy.

Vùng sinh thái ngọt - lợ có diện tích 1,35 triệu ha bao gồm các hệ thống thủy lợi Nhật Tảo - Tân Trụ, Gò Công, Bắc Bến Tre, Nam Bến Tre, Nam Măng Thít, Long Phú - Tiếp Nhật, U Minh Thượng, một phần của Tứ Giác Long Xuyên, thuộc một phần các tỉnh, thành phố: An Giang, Cà Mau, Cần Thơ, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Tây Ninh. Định hướng phát triển thủy lợi cho vùng này phục vụ cho các mô hình sản xuất: cây ăn trái, lúa, tôm - lúa. Các giải pháp thủy lợi cần linh hoạt phục vụ chuyển đổi sản xuất, phù hợp với điều kiện nguồn nước.

Giải pháp công trình là hoàn thiện khép kín hệ thống thủy lợi chủ động cấp, tiêu, thoát nước phục vụ dân sinh, sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản và cây ăn trái. Hoàn thiện, khép kín các hệ thống thủy lợi, xây dựng các công trình kiểm soát mặn.

Vùng sinh thái mặn với diện tích 0,75 triệu ha vùng ven biển thuộc các tỉnh/thành phố: An Giang, Cà Mau, Cần Thơ, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Tây Ninh. Định hướng phát triển thủy lợi cho vùng này tập trung phục vụ cho nuôi trồng thủy sản với các hình thức: thâm canh, quảng canh cải tiến, tôm - rừng.

Giải pháp công trình là hoàn thiện hệ thống thủy lợi để chủ động điều tiết nguồn nước mặn - ngọt, kiểm soát triều cường; hoàn thiện các ô bao thủy lợi để bảo vệ khu vực sản xuất; tăng cường trữ nước trong hệ thống kênh, rạch; cân đối, điều hòa nguồn nước giữa các khu vực; đề xuất giải pháp cấp nước mặn từ biển. Tiếp tục đầu tư xây dựng củng cố, nâng cấp các tuyến đê biển, hệ thống kè chắn sóng gây bồi, tạo bãi kết hợp với trồng rừng ngập mặn bảo vệ đê biển, bờ biển...

Điểm khống chế mặn trên dòng chính với độ mặn 1g/l phục vụ cấp nước sinh hoạt và cây ăn trái:trên sông Vàm Cỏ Tây tại cống Bắc Đông; trên sông Tiền tại đầu kênh Nguyễn Tấn Thành; trên sông Hàm Luông tại An Hiệp; trên sông Cổ Chiên tại vị trí hợp lưu với sông Măng Thít; trên sông Hậu tại kênh Cái Cui; trên sông Cái Lớn tại cầu Cái Tư.

Điểm khống chế mặn trên dòng chính với độ mặn 4g/l ngưỡng mặn tối đa phục vụ sản xuất lúa:trên sông Tiền tại cống Xuân Hòa; trên sông Hàm Luông tại Mỹ Hóa; trên sông Cổ Chiên tại cống Vũng Liêm; trên sông Hậu tại kênh Cái Côn; trên sông Vàm Cỏ Tây tại Tân An.

Nguồn: bonongnghiepvamoitruong.vn

 

Quy hoạch thủy lợi cho 4 triệu ha lưu vực sông Cửu Long

 

Nông nghiệp - Môi trường: Hợp lực vì tương lai xanh

 

Chọn cỡ chữ   

Nhiệm kỳ 2020–2025 chứng kiến nhiều dấu ấn quan trọng, những nỗ lực vượt bậc của ngành Nông nghiệp và Môi trường trong bối cảnh thế giới và trong nước gặp nhiều khó khăn, thách thức. Từ vai trò "trụ đỡ của nền kinh tế" đến trụ cột phát triển bền vững của quốc gia, hai lĩnh vực này đã có bước phát triển toàn diện, đóng góp thiết thực vào ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái.

Nông nghiệp - Môi trường: Hợp lực vì tương lai xanh- Ảnh 1.Nông nghiệp - Môi trường: Hợp lực vì tương lai xanh- Ảnh 1.

Quyền Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng: Nhiệm kỳ 2025-2030, toàn ngành xác định đây là giai đoạn quan trọng để ngành Nông nghiệp và Môi trường vững vàng bước vào Kỷ nguyên vươn mình, thịnh vượng, giàu mạnh của dân tộc

Nhân dịp Đại hội đại biểu Đảng bộ Chính phủ lần thứ I, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ phỏng vấn Quyền Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng về những dấu ấn tiêu biểu của ngành trong nhiệm kỳ qua cũng như định hướng, mục tiêu phát triển trong giai đoạn 2025-2030.

Tập trung các khâu đột phá chiến lược

Thưa đồng chí, trong nhiệm kỳ 2020-2025, ngành Nông nghiệp và Môi trường đã vượt qua những thách thức và đạt được những thành tựu nổi bật như thế nào?

Đồng chí Trần Đức Thắng:Nhiệm kỳ 2020-2025 là một giai đoạn đặc biệt khó khăn và đầy thách thức. Thế giới chứng kiến chuỗi cung ứng lương thực, thực phẩm toàn cầu bị đứt gãy do dịch bệnh COVID-19; cùng với đó là những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu gây ra các hình thái thời tiết hết sức cực đoan, như hạn hán, xâm nhập mặn kéo dài, lũ lụt, bão, sụt lún, sạt lở… làm tổn thất nghiêm trọng đến năng suất, sản lượng cây trồng, thủy sản và hệ sinh thái nông nghiệp. Xung đột Nga - Ukraine kéo dài từ năm 2022 cũng tạo cú sốc lớn, đẩy giá nông sản leo thang. Trong nước, chúng ta phải đối mặt với tác động kép của biến đổi khí hậu và dịch bệnh; lại thêm biến động thị trường, biến chuyển xu hướng tiêu dùng… tạo ra những thách thức chưa từng có cho nền kinh tế nói chung và ngành Nông nghiệp và Môi trường nói riêng.

Tuy nhiên, nhờ sự quan tâm sâu sát lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; sự chung sức đồng lòng của cả hệ thống chính trị, sự vào cuộc của doanh nghiệp, người dân; toàn ngành với ý chí, khát vọng và tinh thần đoàn kết, kỷ cương, trách nhiệm đã nỗ lực vươn lên vượt bậc để phát triển toàn diện. Toàn ngành đã tập trung chỉ đạo thúc đẩy cơ cấu lại nông nghiệp theo hướng sinh thái, xanh, bền vững, chất lượng và giá trị gia tăng cao; nhờ đó nông nghiệp liên tục phát huy vai trò "trụ đỡ" của nền kinh tế, góp phần bảo đảm an sinh xã hội và an ninh lương thực quốc gia, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Xây dựng nông thôn mới đạt nhiều kết quả quan trọng, hoàn thành sớm mục tiêu đề ra, góp phần thay đổi diện mạo nông thôn và nâng cao đời sống người dân. Dịch vụ, du lịch nông nghiệp, nông thôn phục hồi và phát triển nhanh sau dịch bệnh Covid-19 đã thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển, chuyển dịch theo hướng hiện đại; khai thác thế mạnh kinh tế biển, kinh tế lâm nghiệp với giá trị đa dụng của hệ sinh thái rừng.

Nông nghiệp - Môi trường: Hợp lực vì tương lai xanh- Ảnh 2.Nông nghiệp - Môi trường: Hợp lực vì tương lai xanh- Ảnh 2.

 Nông nghiệp liên tục phát huy vai trò "trụ đỡ" của nền kinh tế, góp phần bảo đảm an sinh xã hội và an ninh lương thực quốc gia, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế

Một trong những điểm sáng rõ nét nhất là việc ngành Nông nghiệp và Môi trường đã hoàn thành xuất sắc các chỉ tiêu đề ra. Cụ thể, 9/9 chỉ tiêu về nhiệm vụ chính trị đặt ra từ đầu nhiệm kỳ 2020-2025 đều đã đạt được. Đặc biệt, nhiều chỉ tiêu còn vượt xa mục tiêu ban đầu: Tốc độ tăng trưởng GDP toàn ngành nông nghiệp dự kiến đạt 3,7%/năm (vượt, kế hoạch 2,5 - 3%/năm), năm 2025 tăng trưởng GDP toàn ngành phấn đấu đạt 4%. Kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản tăng trên 8,4%/năm (vượt, kế hoạch 5 - 6%/năm), năm 2025 dự kiến đạt trên 65 tỷ USD. Hoàn thành chỉ tiêu 80% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; tỷ lệ che phủ rừng năm 2025 đạt 42,03% (vượt, kế hoạch 42%). Tỷ lệ Khu công nghiệp (KCN) có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt 92,3% (vượt, kế hoạch 92%). Bên cạnh đó, toàn bộ các chỉ tiêu về công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ trong nhiệm kỳ 2020 - 2025 đều đạt 100% so với mục tiêu trong Nghị quyết Đại hội.

Toàn ngành cũng đã tập trung vào các khâu đột phá chiến lược. Trong đó, xây dựng, hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế là điểm sáng nổi bật. Trong giai đoạn 2020-2024, Ban cán sự Đảng của hai Bộ trước đây và Ban Thường vụ Đảng ủy Bộ hiện nay đã tham mưu ban hành nhiều nghị quyết, kết luận, chỉ thị, chiến lược quan trọng, tạo lập hành lang pháp lý thống nhất, đồng bộ, xử lý "điểm nghẽn" và khơi thông nguồn lực phát triển.

Mới đây là thể chế hóa các quan điểm, định hướng, nhiệm vụ, giải pháp tại bốn Nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị ("bộ tứ trụ cột"), các Nghị quyết về văn hóa, y tế, giáo dục… để khơi thông nguồn lực, tạo động lực mới cho tăng trưởng, phát triển ngành.

Đồng thời, ngành đã quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức triển khai các chủ trương, định hướng về công tác tổ chức, cán bộ, tinh gọn bộ máy và cải cách hành chính. Đặc biệt, việc hợp nhất hai Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Tài nguyên và Môi trường thành Bộ Nông nghiệp và Môi trường theo Nghị định số 35/2025/NĐ-CP ngày 25/02/2025 là một quyết sách lịch sử, tạo nền móng pháp lý vững chắc cho sự phát triển của ngành.

Bên cạnh đó, tập trung đẩy mạnh thực hiện đột phá chiến lược xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn hiện đại, đồng bộ, nâng cao chất lượng phục vụ sản xuất và đời sống. Hạ tầng số, nền tảng số, cơ sở dữ liệu quốc gia về nông nghiệp và môi trường được triển khai, hỗ trợ hiệu quả công tác chỉ đạo điều hành và giải quyết thủ tục hành chính.

Những thành tựu này là minh chứng cho sự đoàn kết, chủ động, đổi mới sáng tạo của toàn ngành, sự chung sức, đồng lòng của địa phương, doanh nghiệp và người dân, góp phần quan trọng vào thành quả chung phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Nông nghiệp - Môi trường: Hợp lực vì tương lai xanh- Ảnh 3.Nông nghiệp - Môi trường: Hợp lực vì tương lai xanh- Ảnh 3.

Xuất khẩu nông lâm thủy sản tăng liên tục trong 5 qua.

Nông nghiệp và Môi trường: Hai trụ cột song hành

Thưa đồng chí, trong quan điểm phát triển mới, nông nghiệp và môi trường không còn là hai lĩnh vực tách biệt mà được coi là hai trụ cột song hành. Đồng chí có thể chia sẻ rõ hơn cách nhìn nhận, định hướng và những kết quả nổi bật trong việc phát triển nông nghiệp, nông thôn gắn với bảo vệ môi trường, quản lý tài nguyên thiên nhiên và ứng phó biến đổi khí hậu trong giai đoạn 2020-2025?

Đồng chí Trần Đức Thắng:Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII được xem là dấu mốc quan trọng, khẳng định rõ vai trò "nông nghiệp là lợi thế quốc gia, trụ đỡ của nền kinh tế". Văn kiện này đặt ra mục tiêu phát triển toàn diện nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn 2045 - coi đây là nền tảng cho ổn định xã hội và phát triển bền vững đất nước.

Nghị quyết nhấn mạnh yêu cầu tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng tích hợp đa giá trị, gắn sản xuất với chế biến, dịch vụ và thị trường tiêu thụ; đồng thời đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ, cơ giới hóa, chuyển đổi số, hình thành các chuỗi giá trị nông sản hiện đại. Với định hướng đó, nông nghiệp Việt Nam không chỉ là "tấm đệm an sinh" trong giai đoạn khó khăn, mà đang trở thành động lực tăng trưởng mới, góp phần nâng cao thu nhập và chất lượng sống của hàng chục triệu nông dân.

Nông nghiệp - Môi trường: Hợp lực vì tương lai xanh- Ảnh 4.Nông nghiệp - Môi trường: Hợp lực vì tương lai xanh- Ảnh 4.

 Môi trường không còn là “hậu phương” của tăng trưởng, mà đã trở thành trụ cột song hành, gắn chặt với mọi chiến lược phát triển quốc gia.

Cùng với kinh tế và xã hội, môi trường luôn được xác định là một trong ba trụ cột phát triển bền vững của quốc gia. Tư tưởng đó được thể hiện xuyên suốt từ Nghị quyết 41-NQ/TW (2004) của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa, đến Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, khẳng định phát triển hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường.

Quan điểm này được thể chế hóa trong Luật Bảo vệ môi trường 2020, nhấn mạnh: "Bảo vệ môi trường là điều kiện, nền tảng, yếu tố trung tâm và tiên quyết cho phát triển kinh tế - xã hội bền vững". Như vậy, môi trường không còn là "hậu phương" của tăng trưởng, mà đã trở thành trụ cột song hành, gắn chặt với mọi chiến lược phát triển quốc gia.

Trong giai đoạn 2021-2025, ngành nông nghiệp Việt Nam chứng kiến những bước tiến vượt bậc: cơ cấu lại sản xuất theo hướng thị trường, tăng nhanh tỷ trọng sản phẩm có giá trị cao như thủy sản, rau, hoa, quả, cây công nghiệp, đồ gỗ và lâm sản ngoài gỗ. Nhiều vùng sản xuất tập trung, ứng dụng công nghệ cao, đạt chuẩn GlobalGAP, VietGAP được hình thành.

Trồng trọt chuyển dịch mạnh, gần 478 nghìn ha lúa kém hiệu quả được chuyển sang cây trồng và nuôi trồng khác cho giá trị kinh tế cao hơn. Năng suất lúa vẫn duy trì mức tăng 2%/năm, đưa sản lượng lúa năm 2024 đạt 43,5 triệu tấn, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực. Chăn nuôi phát triển theo hướng công nghiệp, an toàn sinh học, hữu cơ. Năm 2024, tổng sản lượng thịt hơi đạt 8,3 triệu tấn, tăng hơn 28% so với năm 2020. Lâm nghiệp gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường: diện tích trồng rừng mới hơn 260 nghìn ha/năm, thu từ dịch vụ môi trường rừng đạt gần 3.700 tỷ đồng/năm, góp phần bảo vệ hơn 7,3 triệu ha rừng. Thủy sản phát triển mạnh, sản lượng năm 2024 đạt 9,6 triệu tấn, tăng 16,4% so với năm 2020, trong đó nuôi trồng chiếm tỷ trọng ngày càng lớn. Nhiều địa phương đẩy mạnh khai thác xa bờ, chống khai thác IUU, nâng cao giá trị sản phẩm thủy sản Việt Nam trên thị trường thế giới.

Đồng thời, bất chấp khó khăn toàn cầu, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản năm 2024 đạt 62,5 tỷ USD, mức cao kỷ lục, thặng dư thương mại 17,9 tỷ USD. Các mặt hàng tỷ USD như gạo, cà phê, trái cây, gỗ, thủy sản tiếp tục duy trì vị thế trên thị trường Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản và EU. Cùng với đó, chương trình "Mỗi xã một sản phẩm" (OCOP) có trên 16.500 sản phẩm đạt từ 3 sao trở lên, góp phần định hình thương hiệu nông sản Việt.

Chương trình Xây dựng nông thôn mới đạt nhiều kết quả toàn diện: đến giữa năm 2025, có 79,3% xã đạt chuẩn, 24 tỉnh đạt 100% xã nông thôn mới. Thu nhập nông dân tăng mạnh, bình quân đạt 55 triệu đồng/năm, tỷ lệ nghèo giảm còn 1,93%, phản ánh hiệu quả của chính sách tam nông.

Bên cạnh đó, ngành cũng tập trung quản lý hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, chủ động ứng với biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường. Trong đó, Luật Đất đai 2024, Luật Tài nguyên nước 2023, Luật Địa chất và Khoáng sản 2024 được ban hành đã tạo hành lang pháp lý quan trọng cho quản lý tài nguyên thiên nhiên minh bạch, bền vững. Hệ thống cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia hoàn thiện, kết nối toàn quốc; 11 quy trình vận hành liên hồ chứa đảm bảo an ninh nguồn nước; điều tra khoáng sản đạt 70% diện tích đất liền và 40% vùng biển Việt Nam, đóng góp 5.000 tỷ đồng/năm cho ngân sách.

Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 cùng các chiến lược quốc gia đến năm 2050 về biến đổi khí hậu, giảm phát thải khí metan, phát triển thị trường carbon khẳng định quyết tâm của Việt Nam trong mục tiêu "Net Zero 2050"; Đến năm 2025, tỷ lệ thu gom chất thải rắn đô thị đạt 95%, diện tích rừng tự nhiên được bảo vệ phục hồi trên 4 triệu ha, và khu bảo tồn thiên nhiên chiếm trên 7,5% lãnh thổ.

Công tác dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn (KTTV) được hiện đại hóa, ứng dụng công nghệ mới, đáp ứng yêu cầu phát triển và phòng chống thiên tai. Độ tin cậy trong dự báo bão, mưa lớn, rét đậm, lũ lụt, nắng nóng, dông sét, sạt lở đất được nâng lên rõ rệt; Quản lý, khai thác công trình thủy lợi có nhiều đổi mới. Các công trình được vận hành linh hoạt phục vụ đa mục tiêu, từ sản xuất, dân sinh đến phòng chống hạn, xâm nhập mặn và úng ngập. Công tác phòng chống thiên tai được triển khai đồng bộ, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, chính sách và tổ chức bộ máy từ Trung ương đến địa phương. Hệ thống đê điều được quản lý chặt chẽ, duy trì nền nếp, sẵn sàng ứng phó, bảo đảm an toàn trong mùa mưa lũ.

Ngoài ra, trong lĩnh vực công tác tổng hợp, đầu tư phát triển và quản lý tài chính của ngành được quan tâm đặc biệt. Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế cũng được đẩy mạnh, đi vào chiều sâu và đạt nhiều kết quả quan trọng, có ý nghĩa chiến lược. Chúng ta đã chủ động thúc đẩy nhiều chương trình, hoạt động đối ngoại đa phương, hợp tác quốc tế với các tổ chức quốc tế, các đối tác song phương, đặc biệt là các nước láng giềng. Điều này không chỉ giúp tiếp cận các hỗ trợ kỹ thuật, khoa học, công nghệ, tri thức và các dòng vốn cho phát triển, mà còn phối hợp đàm phán, tháo gỡ kỹ thuật, mở cửa thị trường cho nhiều sản phẩm nông lâm thủy sản sang các thị trường lớn. Việt Nam từng bước trở thành một hình mẫu phát triển về phát thải carbon thấp, nông nghiệp xanh, đóng góp vào sự phát triển chung và cao hơn là bảo vệ sức khỏe, an ninh lương thực bền vững, chất lượng sống và an toàn, thịnh vượng.

Đặc biệt, toàn ngành đã thúc đẩy mạnh mẽ nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, và đẩy mạnh chuyển đổi số. Đảng ủy Bộ xác định khoa học và công nghệ là giải pháp đột phá về năng suất, chất lượng và nâng cao năng lực cạnh tranh, là động lực phát triển nông nghiệp xanh, sạch, thông minh. Ngành Nông nghiệp và Môi trường đã lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và tổ chức thực hiện 51 Chương trình, Kế hoạch quốc gia về các nội dung, nhiệm vụ của ngành. Ngành đã đầu tư và chỉ đạo hoạt động của 21 tổ chức khoa học và công nghệ (16 viện chuyên ngành và 05 viện quy hoạch) và 34 đơn vị đào tạo, cùng với 180 phòng thí nghiệm phục vụ nghiên cứu. Đội ngũ cán bộ khoa học lớn với hơn 11.000 người tại các đơn vị thuộc Bộ đã được hình thành. Tới đây sẽ sắp xếp, cơ cấu lại toàn diện các tổ chức này theo Nghị quyết của Bộ Chính trị và theo Quy hoạch, Quyết định phê duyệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

Bộ cũng đã ban hành 1.832 TCVN và 175 QCVN, cơ bản bao quát đầy đủ các chuyên ngành. Chuyển đổi số được tăng cường ứng dụng, triển khai xây dựng có hiệu quả Chính phủ số, cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ cao, ứng dụng công nghệ thông tin trong việc thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông và quản lý nhà nước chuyên ngành. Các hệ thống thông tin phục vụ người dân, doanh nghiệp thường xuyên được cập nhật, tương tác hiệu quả.

Tất cả những kết quả ấy cho thấy, nông nghiệp và môi trường không chỉ là hai ngành kinh tế - kỹ thuật, mà là hai trụ đỡ chiến lược bảo đảm cho đất nước phát triển hài hòa, bền vững, hướng tới tương lai xanh, thịnh vượng.

Nông nghiệp - Môi trường: Hợp lực vì tương lai xanh- Ảnh 5.Nông nghiệp - Môi trường: Hợp lực vì tương lai xanh- Ảnh 5. 

Bảo vệ môi trường là điều kiện, nền tảng, yếu tố trung tâm và tiên quyết cho phát triển kinh tế - xã hội bền vững 

4 đột phá chiến lược giúp ngành nông nghiệp và môi trường đổi mới toàn diện

Xin đồng chí cho biết ngành Nông nghiệp và Môi trường đã đề ra những mục tiêu tổng quát và những đột phá chiến lược nào để thực hiện các chỉ tiêu, nhiệm vụ trong giai đoạn 2025-2030?

Đồng chí Trần Đức Thắng:Nhiệm kỳ 2025-2030, toàn ngành xác định đây là giai đoạn quan trọng để ngành Nông nghiệp và Môi trường vững vàng bước vào kỷ nguyên vươn mình, thịnh vượng, giàu mạnh của dân tộc, đóng góp vào sự phát triển bền vững của đất nước, hướng tới tầm nhìn đến năm 2045. Với phương châm "Đoàn kết - Dân chủ - Kỷ cương - Đột phá - Phát triển", ngành Nông nghiệp và Môi trường đề ra 6 mục tiêu tổng quát:

(1) Xây dựng nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa đồng thời phát triển nông nghiệp dựa trên lợi thế so sánh quốc gia theo hướng hiện đại có năng suất, chất lượng cao, hiệu quả, bền vững, có sức cạnh tranh cao thuộc nhóm dẫn đầu khu vực Đông Nam Á và Top 15 trên thế giới vào năm 2030. Đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia, kim ngạch xuất khẩu nông sản duy trì đà tăng trưởng cao, góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội đất nước và sinh kế người dân.

(2) Chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng tránh thiên tai, giảm phát thải khí nhà kính; có bước chuyển biến cơ bản trong khai thác, sử dụng tài nguyên theo hướng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững; ngăn chặn xu hướng gia tăng ô nhiễm môi trường, suy giảm đa dạng sinh học nhằm bảo đảm chất lượng môi trường sống, duy trì cân bằng sinh thái, hướng tới nền kinh tế xanh, thân thiện với môi trường.

(3) Nâng cao đóng góp của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo vào tăng trưởng Ngành thông qua các hoạt động nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học công nghệ của các tổ chức khoa học công nghệ công lập và khu vực tư nhân. Đến năm 2030, đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng ngành ở mức trên 50%.

(4) Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, huy động có hiệu quả nguồn lực quốc tế nhằm thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu của ngành nông nghiệp và môi trường; ứng phó với các vấn đề an ninh phi truyền thống (lương thực, tài nguyên nước, khoáng sản, khí hậu, đa dạng sinh học…), đảm bảo lợi ích của Việt Nam trên trường quốc tế.

(5) Đến năm 2030, hệ thống kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn cơ bản đồng bộ, hiện đại. Giải quyết căn bản nước sinh hoạt cho các đảo có đông dân cư; hoàn thiện đồng bộ hệ thống công trình điều tiết nước mặn, nước ngọt, tích trữ nước trên các lưu vực sông lớn; cân đối đủ nước phục vụ dân sinh và phát triển kinh tế - xã hội. Hoàn thành sửa chữa, nâng cấp các đập, hồ chứa nước hư hỏng, xuống cấp, thiếu năng lực phòng, chống lũ. Tập trung phòng, chống sạt lở bờ sông, bờ biển tại các khu vực trọng điểm xung yếu.

(6) Phát huy tối đa tiềm năng, giá trị tài nguyên, không gian biển; chú trọng tài nguyên vùng bờ và sự kết nối giữa đất liền và biển; tạo lập cơ sở cho phát triển nhanh và bền vững kinh tế biển, góp phần hình thành, phát triển các ngành kinh tế biển vững mạnh, tạo nhiều sinh kế hiệu quả cho người dân; bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hợp tác quốc tế, giữ vững độc lập, chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích quốc gia trên biển; từng bước đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.

Để đạt được những mục tiêu nêu trên, ngành Nông nghiệp và Môi trường đã xác định tập trung thực hiện 4 đột phá chiến lược sau:

Thứ nhất, quyết liệt cải cách, hoàn thiện thể chế, pháp luật, khơi thông các điểm nghẽn, giải phóng mọi nguồn lực cho phát triển; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, phát huy vai trò tự chủ, tự chịu trách nhiệm của địa phương; cải cách, đơn giản hóa tối đa thủ tục hành chính đảm bảo công khai, minh bạch. Tập trung xây dựng và trình cấp có thẩm quyền ban hành các luật sửa đổi, bổ sung các Luật về đất đai, Địa chất và Khoáng sản, Luật Bảo vệ môi trường và các luật quan trọng khác trong lĩnh vực Nông nghiệp và Môi trường.

Thứ hai, thúc đẩy đột phá về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số phục vụ kiến tạo, phát triển ngành. Tập trung triển khai các cơ chế thử nghiệm, thí điểm vượt trội cho các mô hình sản xuất nông nghiệp; hoàn thành hệ thống cơ sở dữ liệu của ngành, trong đó quyết tâm hoàn thành cơ bản cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia trong năm 2025.

Thứ ba, tạo đột phá mạnh mẽ trong xây dựng hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, tài nguyên, môi trường đồng bộ, hiện đại, trong đó tập trung nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo và nâng cấp hạ tầng phòng, chống thiên tai; tăng cường các giải pháp khắc phục ô nhiễm môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; phát triển thủy lợi đa mục tiêu; đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ nông lâm thủy sản, bảo vệ và phát triển rừng.

Thứ tư, tập trung phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao; tạo đột phá, chuyển biến mạnh trong công tác cán bộ, thu hút và trọng dụng nhân tài. Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp thực sự tiêu biểu, nhất là người đứng đầu; Chú trọng xây dựng đội ngũ nhà khoa học, chuyên gia, đội ngũ doanh nhân, nông dân chuyên nghiệp đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong giai đoạn phát triển mới của ngành.

Tôi tin tưởng rằng, với quan tâm sâu sát lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; sự chung sức đồng lòng của cả hệ thống chính trị, sự vào cuộc của doanh nghiệp, người dân, ngành Nông nghiệp và Môi trường sẽ tiếp tục gặt hái nhiều thành công hơn nữa trong nhiệm kỳ 2025-2030, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ mà Đại hội đại biểu Đảng bộ Chính phủ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030 đề ra, khẳng định quyết tâm thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng và hướng tới năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước, hiện thực hóa tầm nhìn về một Việt Nam giàu mạnh, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc.

Trân trọng cảm ơn đồng chí!

Theo Chinhphu.vn

Nông nghiệp - Môi trường: Hợp lực vì tương lai xanh

 

Chống ngập đô thị [Bài 1] – Khi phố thành sông

Mưa lớn đầu tháng 10 lại khiến Hà Nội chìm trong biển nước, lộ ra những bất cập trong quy hoạch, phát triển hạ tầng, tích hợp ứng phó với biến đổi khí hậu. 

Oằn mình trong trận lũ lịch sử

Thái Nguyên thiệt hại nặng về sản xuất, chăn nuôi do mưa lũ

Bắc Ninh hỗ trợ khẩn cấp 20 tỷ đồng cho nhân dân vùng lũ

Bắc Ninh chủ động kiểm soát các điểm đê xung yếu

Hà Nội “ngộp thở” trong biển nước sau hai đợt mưa bão

Khoảng 9h sáng nay (11/10), mưa rào diện rộng đổ xuống Hà Nội, kéo dài gần một giờ khiến nhiều tuyến phố bị ngập sâu từ 10 đến 30 cm. Lực lượng chức năng ghi nhận hơn 10 điểm ngập trên toàn thành phố.

Mưa lớn kéo dài nhiều giờ diễn ra sáng sáng 7/10 khiến toàn thành phố Hà Nội 'ngộp thở' trong biển nước. Ảnh: Nguyễn Thủy.Mưa lớn kéo dài nhiều giờ diễn ra sáng sáng 7/10 khiến toàn thành phố Hà Nội 'ngộp thở' trong biển nước. Ảnh: Nguyễn Thủy.

Trận mưa này không kéo dài nhưng tiếp tục gây ngập. Trước đó, Hà Nội đã liên tiếp hứng chịu hai trận mưa bão lịch sử khiến toàn thành phố “ngộp thở” trong biển nước. Cuối tháng 9, hoàn lưu bão Bualoi đã trút lượng mưa từ 120 đến hơn 600 mm, gây ra 116 điểm ngập với mực nước từ 30 cm đến 1,5 m. Nhiều khu dân cư chìm trong nước suốt nhiều ngày.

Chưa kịp khắc phục hậu quả, đêm 6 và sáng 7/10, hoàn lưu bão số 11 (Matmo) tiếp tục đổ xuống lượng mưa cực lớn, có nơi lên tới 261 mm chỉ trong vài giờ khiến 122 điểm ngập mới xuất hiện. Trong đó, 29 điểm ngập nặng, giao thông tê liệt, hàng nghìn phương tiện chết máy, người dân phải dắt xe lội nước hoặc quay đầu tìm đường khác. Đến sáng 8/10, dù trời đã tạnh, vẫn còn 13 điểm ngập úng, có nơi nước sâu nửa mét.

Thống kê của ngành xây dựng cho thấy, giai đoạn 2012-2022, Hà Nội ghi nhận hơn 200 điểm ngập tại 16 quận, huyện, và con số này vẫn tiếp tục tăng. Rõ ràng, ngập úng không còn là hiện tượng bất thường mà đã trở thành “bệnh mãn tính” của đô thị. Đây là hệ quả của hạ tầng quá tải và biến đổi khí hậu ngày càng cực đoan.

Khi nước mưa không còn lối thoát

Theo GS.TS Nguyễn Việt Anh - Phó Chủ tịch Hội Cấp thoát nước Việt Nam, hệ thống thoát nước Hà Nội hiện đã “lỗi thời” so với tốc độ đô thị hóa. Hệ thống này chỉ được thiết kế cho lượng mưa khoảng 310 mm trong hai ngày, trong khi các trận mưa gần đây thường vượt xa ngưỡng đó. “Khi toàn bộ nước đổ dồn vào cống nhỏ, ngập là điều không tránh khỏi”, GS Việt Anh nói.

Người dân gia cố bờ bao nhằm hạn chế nước ngập xâm nhập vào tầng hầm khu dân cư. Ảnh: Nguyễn Thủy.Người dân gia cố bờ bao nhằm hạn chế nước ngập xâm nhập vào tầng hầm khu dân cư. Ảnh: Nguyễn Thủy.
 Cùng quan điểm, TS.KTS Đào Ngọc Nghiêm - nguyên Giám đốc Sở Quy hoạch và Kiến trúc Hà Nội cho rằng, thành phố đã mất khoảng hai phần ba diện tích mặt nước tự nhiên. Nhiều hồ, ao, mương, ruộng,  vốn là “túi chứa nước” và “phổi xanh” đã bị san lấp để nhường chỗ cho đô thị mới. “Khi không còn không gian chứa và điều tiết nước, ngập úng chỉ còn là vấn đề thời gian”, TS Nghiêm phân tích.

Bổ sung thêm, ông Lê Văn Du - Trưởng phòng Quản lý Hạ tầng cấp, thoát nước (Sở Xây dựng Hà Nội) cho biết, nhiều dự án hồ điều hòa, trạm bơm, kênh tiêu vẫn chậm tiến độ hoặc chưa vận hành hiệu quả. Việc chưa tách riêng hệ thống nước mưa và nước thải khiến cống quá tải, vừa gây ngập úng, vừa làm ô nhiễm sông hồ nội đô.

Dưới áp lực khí hậu, ngập lụt đô thị sẽ còn trầm trọng hơn

Các chuyên gia môi trường cảnh báo, biến đổi khí hậu đang khiến mưa cực đoan gia tăng cả về tần suất lẫn cường độ, làm trầm trọng thêm những yếu kém sẵn có của hạ tầng đô thị. Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, lượng mưa lớn trên 100 mm/giờ đã tăng nhanh trong 30 năm qua; giai đoạn 1990-2020, số ngày mưa cực đoan ở miền Bắc tăng gần 20%, trong khi lượng mưa trung bình năm tăng 10-15%.

Điều này đồng nghĩa với việc Hà Nội và nhiều đô thị khác sẽ phải đối mặt với những trận mưa lớn hơn, ngập sâu hơn và kéo dài hơn trong những năm tới, đặc biệt khi hệ thống thoát nước chưa được thiết kế phù hợp với các kịch bản khí hậu mới.

Sau nhiều ngày mưa lớn gây ngập lụt, trời đã hửng nắng trở lại, song ở nhiều khu vực trũng, nước vẫn chưa rút hết, tình trạng ngập vẫn tiếp diễn. Ảnh: Nguyễn Thủy.Sau nhiều ngày mưa lớn gây ngập lụt, trời đã hửng nắng trở lại, song ở nhiều khu vực trũng, nước vẫn chưa rút hết, tình trạng ngập vẫn tiếp diễn. Ảnh: Nguyễn Thủy.

Nếu như trước đây ngập chỉ xảy ra ở vùng trũng, thì nay, tình trạng này đã lan sang các khu đô thị mới. GS.TS Nguyễn Việt Anh lý giải: “Các khu đô thị mới bị bê tông hóa gần như hoàn toàn, khiến nước mưa không còn chỗ thấm, dồn nhanh về vùng thấp tạo thành ‘rốn lũ’ giữa lòng thành phố”.

Thực tế, theo kịch bản biến đổi khí hậu quốc gia, đến năm 2050, lượng mưa cực đoan tại đồng bằng sông Hồng có thể tăng thêm 15-20%, trong khi nhiệt độ trung bình tăng khoảng 1,9°C. Nhiệt độ cao hơn đồng nghĩa lượng hơi nước trong khí quyển nhiều hơn, kéo theo những cơn mưa dồn dập vượt quá khả năng tiêu thoát của hạ tầng hiện nay.

Nguồn: baonongnghiepvamoitruong.vn

Chống ngập đô thị [Bài 1] – Khi phố thành sông

 

Nước sạch nông thôn nâng cao đời sống, cải thiện sức khỏe

Từ khi có hệ thống cấp nước sạch, người dân nông thôn yên tâm sử dụng, sức khỏe cải thiện, môi trường sống được bảo vệ, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống.

Nguồn nước sạch tiếp sức vùng lũ Điện Biên

Đưa nước sạch về vùng nông thôn, miền núi, đồng bào quý như vàng

Những ngày đầu thu, về xã Mường Phăng, tỉnh Điện Biên, chúng tôi bắt gặp hình ảnh bà con phấn khởi mở vòi nước sạch ngay trong sân nhà. Họ không còn phải gánh nước từ suối xa, cũng không còn lo lắng mỗi mùa mưa lũ, nguồn nước sinh hoạt đục ngầu, tiềm ẩn nhiều nguy cơ bệnh tật.

Chỉ tay về chiếc vòi nước đang chảy róc rách, bà Lò Thị Nang, bản Công, vui vẻ nói: Mấy chục năm qua, gia đình tôi dùng nước suối. Mùa khô thì cạn, mùa mưa thì đục, trẻ con thường xuyên đau bụng. Giờ có nước sạch dẫn về tận nhà, cuộc sống thay đổi hẳn, sức khỏe cũng tốt hơn nhiều.

Từ khi có nước sạch về đến tận nhà, người dân không còn vất vả đi lấy nước ở suối về sinh hoạt trong gia đình. Ảnh: Hoàng Châu. Từ khi có nước sạch về đến tận nhà, người dân không còn vất vả đi lấy nước ở suối về sinh hoạt trong gia đình. Ảnh: Hoàng Châu. 

Không riêng gì gia đình bà Nang, hàng trăm hộ dân trong xã cũng hưởng lợi từ công trình nước sạch được đưa vào sử dụng năm 2021. Họ có thể yên tâm dùng nước cho ăn uống, nấu nướng, chăn nuôi mà không còn nỗi lo nguồn nước ô nhiễm.

Ở nhiều vùng nông thôn, trước đây người dân quen với việc sử dụng nước giếng, nước mưa hoặc suối mà không qua xử lý. Thói quen này tiềm ẩn nguy cơ mắc bệnh đường ruột, giun sán, bệnh ngoài da. Khi có nước sạch, người dân từng bước thay đổi, biết đun sôi trước khi uống, sử dụng nước tiết kiệm và vệ sinh hơn.

Bác sĩ Nguyễn Xuân Thủy, Trạm Y tế xã Mường Phăng, cho biết: Trước đây, xã thường xuyên ghi nhận các ca bệnh liên quan đến nguồn nước như tiêu chảy, viêm da, giun sán. Từ khi hệ thống nước sạch đi vào hoạt động, số ca bệnh giảm rõ rệt. Đây là minh chứng rõ nhất cho vai trò thiết yếu của nước sạch với sức khỏe cộng đồng.

Người dân đang sử dụng nguồn nước sạch kéo từ đầu nguồn về đến thôn bản. Ảnh: Hoàng Châu. Người dân đang sử dụng nguồn nước sạch kéo từ đầu nguồn về đến thôn bản. Ảnh: Hoàng Châu. 

Không chỉ cải thiện sinh hoạt, nước sạch còn hỗ trợ sản xuất nông nghiệp. Gia đình anh Quàng Văn Thanh, bản Kéo, cho biết: Có nước sạch, tôi dùng để vệ sinh chuồng trại, rửa dụng cụ, chăm sóc đàn lợn và gà. Trước kia, nguồn nước ao hồ bẩn nên vật nuôi dễ bệnh, giờ sạch sẽ hơn, hiệu quả chăn nuôi cũng cao hơn.

Ông Trần Văn Tuấn, Chủ tịch UBND xã Mường Phăng, chia sẻ: Xã còn nhiều điểm dân cư phân tán, việc kéo đường ống gặp khó khăn. Tuy nhiên, chúng tôi xác định nước sạch là ưu tiên hàng đầu, bởi có nước sạch thì đời sống người dân mới ổn định và phát triển bền vững.

Nước sạch về thôn bản giúp nâng cao đời sống, cải thiện sức khỏe người dân. Ảnh: Hoàng Châu. Nước sạch về thôn bản giúp nâng cao đời sống, cải thiện sức khỏe người dân. Ảnh: Hoàng Châu. 

Để bảo đảm nước sạch cho nông thôn, cần sự chung tay từ Nhà nước, doanh nghiệp và người dân. Nhà nước tiếp tục đầu tư nâng cấp công trình cấp nước; doanh nghiệp tham gia xã hội hóa dịch vụ; người dân nâng cao ý thức bảo vệ nguồn nước, sử dụng tiết kiệm, vệ sinh.

Nước sạch không chỉ giúp người dân nông thôn cải thiện sức khỏe mà còn góp phần thay đổi diện mạo nông thôn mới, nâng cao chất lượng cuộc sống và bảo vệ môi trường. Đây chính là nền tảng để xây dựng một nền nông nghiệp xanh, một môi trường sống bền vững cho các thế hệ mai sau.

Nguồn:baonongnghiepvamoitruong.vn

 

Nước sạch nông thôn nâng cao đời sống, cải thiện sức khỏe

 

Ngành thủy sản thay đổi cách tiếp cận nguồn nước từ quy định mới

Các quy định chặt chẽ về phân vùng chức năng nguồn nước, xác định dòng chảy tối thiểu và bảo vệ nước ngầm sẽ tác động đa chiều và sâu sắc đến ngành thủy sản.

Văn bản 41/VBHN-BNNMT hợp nhất Thông tư quy định chi tiết thi hành Luật Tài nguyên nước mà Bộ NN-MT vừa ban hành có nhiều quy định liên quan đến ngành thủy sản, một ngành kinh tế mũi nhọn sử dụng và tác động nhiều đến tài nguyên nước. Ngành thủy sản sẽ phải đầu tư, chuyển đổi và thích ứng với những quy định về tài chính, kỹ thuật mới song về lâu dài, ngành thủy sản sẽ hướng đến mô hình phát triển bền vững, nâng cao vị thế, củng cố thương hiệu trên trường quốc tế.

Thông tư đưa ra nhiều quy định quan trọng về phân vùng chức năng nguồn nước, dòng chảy tối thiểu, bảo hộ vệ sinh nguồn nước sinh hoạt và kế hoạch bảo vệ nước ngầm. Ảnh: Minh Hoàng.Thông tư đưa ra nhiều quy định quan trọng về phân vùng chức năng nguồn nước, dòng chảy tối thiểu, bảo hộ vệ sinh nguồn nước sinh hoạt và kế hoạch bảo vệ nước ngầm. Ảnh: Minh Hoàng.

Phân vùng chức năng nguồn nước: Cơ sở cho quản lý hiệu quả

Điểm nổi bật nhất của Thông tư là quy định phân vùng chức năng nguồn nước mặt. Theo đó, từng khu vực nguồn nước được xác định rõ mục đích sử dụng: sinh hoạt, nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, công nghiệp, du lịch hay bảo tồn. Đây là một thay đổi mang tính nền tảng, bởi trước đây, việc khai thác nguồn nước diễn ra rời rạc, nhiều địa phương để tình trạng phát triển tự phát, dẫn đến ô nhiễm và xung đột giữa các ngành.

Đối với ngành nuôi trồng thủy sản – lĩnh vực phụ thuộc trực tiếp vào chất lượng và nguồn cung nước, quy định phân vùng chức năng nguồn nước mở ra hướng phát triển theo chiều sâu, thay vì mở rộng diện tích một cách ồ ạt như trước.

Trước hết, việc xác định rõ ràng vùng nuôi trong quy hoạch tạo cơ sở pháp lý ổn định, giúp người dân và doanh nghiệp an tâm đầu tư dài hạn, áp dụng công nghệ tiên tiến mà không lo rủi ro từ việc thay đổi mục đích sử dụng nước đột ngột.

Bên cạnh đó, tại những khu vực ưu tiên cho sinh hoạt hoặc bảo tồn, hoạt động nuôi trồng buộc phải điều chỉnh hoặc thu hẹp, qua đó loại bỏ dần các vùng nuôi kém hiệu quả, có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường. Nhờ vậy, nguồn nước được bảo vệ tốt hơn, đồng thời ngành thủy sản cũng có điều kiện tái cấu trúc, hướng tới mô hình sản xuất bền vững và an toàn.

Việc quy hoạch vùng nuôi chặt chẽ giúp ngăn chặn tình trạng phát triển tự phát, tránh gây áp lực quá mức lên nguồn nước. Song song với đó, các quy định về duy trì dòng chảy tối thiểu và kiểm soát khai thác nước ngầm góp phần bảo đảm chất lượng nước ổn định, giảm thiểu rủi ro dịch bệnh trong ao nuôi, đồng thời nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm thủy sản Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Việc quy hoạch vùng nuôi thủy sản chặt chẽ giúp ngăn chặn tình trạng phát triển tự phát, tránh gây áp lực quá mức lên nguồn nước. Ảnh: Minh Khang.Việc quy hoạch vùng nuôi thủy sản chặt chẽ giúp ngăn chặn tình trạng phát triển tự phát, tránh gây áp lực quá mức lên nguồn nước. Ảnh: Minh Khang.

Việc quy hoạch vùng nuôi thủy sản chặt chẽ giúp ngăn chặn tình trạng phát triển tự phát, tránh gây áp lực quá mức lên nguồn nước. Ảnh: Minh Khang.

Ở tầm vĩ mô, những quy định mới còn đóng vai trò quan trọng trong việc cân bằng lợi ích giữa các ngành sử dụng nước. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, hạn hán và xâm nhập mặn ngày càng gay gắt, việc phân bổ công bằng, minh bạch nguồn nước dựa trên cơ sở pháp luật sẽ giúp hạn chế xung đột, củng cố niềm tin của người dân và doanh nghiệp. Qua đó, ngành thủy sản không chỉ được đảm bảo nguồn lực phát triển, mà còn trở thành một mắt xích quan trọng trong chiến lược quản lý và khai thác bền vững tài nguyên nước quốc gia.

 Bảo vệ hạ lưu từ quy định duy trì dòng chảy tối thiểu

Một nội dung quan trọng khác là việc xác định dòng chảy tối thiểu trên các sông, suối. Đây là mức dòng chảy cần thiết để duy trì hệ sinh thái thủy sinh, cân bằng môi trường, đồng thời đảm bảo nguồn nước cho sản xuất và sinh hoạt ở hạ lưu.

Thực tế, nhiều con sông ở miền Trung và Tây Nguyên từng cạn kiệt do khai thác quá mức ở thượng nguồn, khiến vùng hạ lưu thiếu nước tưới, nuôi trồng thủy sản bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Với quy định mới, các dự án thủy điện, hồ chứa, khai thác công nghiệp bắt buộc phải duy trì dòng chảy tối thiểu, không được "giữ nước" một cách tuyệt đối. Điều này giúp các vùng nuôi thủy sản ở đồng bằng có nguồn nước ổn định, giảm thiểu rủi ro về dịch bệnh và ô nhiễm.

Dòng chảy tối thiểu cũng là yếu tố quan trọng trong thích ứng biến đổi khí hậu, nhất là tại các vùng thường xuyên chịu hạn hán, xâm nhập mặn. Khi hệ thống sông ngòi duy trì được dòng chảy cơ bản, khả năng tự làm sạch của nước tăng lên, giảm ô nhiễm và tạo điều kiện phục hồi cho hệ sinh thái.

Ngoài phân vùng và dòng chảy, Thông tư còn nhấn mạnh đến việc bảo vệ và quản lý khai thác nước ngầm. Đây là nguồn tài nguyên quý giá, đặc biệt quan trọng đối với các tỉnh ven biển và đồng bằng, nơi thường xuyên bị ảnh hưởng bởi xâm nhập mặn.

Khu vực Đồng bằng sông Cửu Long đang đối mặt với nguy cơ sụt lún đất và suy thoái tầng chứa nước ngầm do khai thác quá mức. Ảnh: Minh Hoàng.Khu vực Đồng bằng sông Cửu Long đang đối mặt với nguy cơ sụt lún đất và suy thoái tầng chứa nước ngầm do khai thác quá mức. Ảnh: Minh Hoàng.

Hiện nay, nhiều khu vực ven biển miền Trung và Đồng bằng sông Cửu Long đang đối mặt với nguy cơ sụt lún đất và suy thoái tầng chứa nước ngầm do khai thác quá mức. Tình trạng này không chỉ gây thiệt hại về hạ tầng mà còn trực tiếp đe dọa sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản, nhất là các mô hình nuôi tôm, cá tra – những đối tượng cần lượng nước ngọt lớn để duy trì chất lượng ao nuôi.

Việc đưa ra các quy định chặt chẽ về bảo vệ nước ngầm giúp giảm khai thác tự phát, tăng cường giám sát và đưa hoạt động này vào quy hoạch tổng thể. Đây là nền tảng quan trọng để đảm bảo an ninh nguồn nước.

Văn bản 41/VBHN-BNNMT hợp nhất Thông tư quy định chi tiết thi hành Luật Tài nguyên nước quy định chi tiết thi hành khoản 4 Điều 22, khoản 9 Điều 24, điểm b khoản 2 Điều 26, khoản 8 Điều 31, khoản 3 Điều 39 của Luật Tài nguyên nước về phân vùng chức năng nguồn nước mặt; xác định, điều chỉnh dòng chảy tối thiểu; xác định và tổ chức việc công bố vùng bảo hộ vệ sinh khu vực lấy nước sinh hoạt; bảo vệ nước dưới đất trong các hoạt động quy định tại khoản 2 Điều 31 của Luật Tài nguyên nước; lập, điều chỉnh kế hoạch bảo vệ nước dưới đất; bổ sung nhân tạo nước dưới đất.

Nguồn: baonongnghiepvamoitruong.vn

 

 

Ngành thủy sản thay đổi cách tiếp cận nguồn nước từ quy định mới

 
Trang 12345678910

Trang 1 trong tổng số 45 trang

Video Sự kiện

logo Đoàn

 PNVN

  • Tin mới nhất
  • Tin xem nhiều nhất

Liên kết web

Bộ Nông nghiệp và môi trường Cục quản lý tài nguyên nước Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia Tổng cục địa chất và khoáng sản Dự án BRG Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Bắc Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Trung Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Nam Ủy ban sông Mê Kông Hội địa chất thủy văn Việt Nam

Thống kê truy cập

mod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_counter
mod_vvisit_counterHôm nay2685
mod_vvisit_counterTrong tuần11038
mod_vvisit_counterTrong tháng56419
mod_vvisit_counterTất cả7922299

We have: 85 guests online